Các khoản vay nước ngoài (bao gồm cả các khoản vay từ bên cho vay nước ngoài và trái phiếu được phát hành trên thị trường quốc tế bằng ngoại tệ) của các doanh nghiệp trong nước chủ yếu chịu sự giám sát của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (“NHNN”) theo Thông tư số 12/2014/TT-NHNN (NHNN, ngày 31 tháng 3 năm 2014), có hiệu lực vào ngày 15 tháng 5 năm 2014, được sửa đổi bổ sung vào năm 2017 (“Thông Tư 12”). Hiện tại, các khoản cho vay trung và dài hạn (cụ thể là các khoản vay có thời hạn trên 12 tháng) phải được đăng ký với NHNN trước khi giải ngân. Trái phiếu có kỳ hạn trên 12 tháng (đây thường là trường hợp phổ biến) cũng phải được NHNN chấp thuận trước khi phát hành. Quy trình phê duyệt khoản vay nước ngoài của NHNN bao gồm 2 bước: (i) xác nhận khoản vay nước ngoài nằm trong hạn mức nợ quốc gia (do Thủ tướng Chính phủ quy định) và (ii) việc đăng ký thỏa thuận giao dịch đối với khoản vay nước ngoài đó. Các khoản vay ngắn hạn không bắt buộc phải đăng ký với NHNN mặc dù các bên vay phải tuân thủ một số điều kiện vay nhất định. Ngoài các điều kiện khác, các khoản vay ngắn hạn không được sử dụng cho mục đích trung hạn và dài hạn.

Gần đây, NHNN đã ban hành dự thảo thông tư thay thế Thông tư 12 (“Dự Thảo Thông Tư”). Bối cảnh của Dự Thảo Thông Tư, như được giải thích trong bản dự thảo của NHNN, là sự gia tăng các khoản vay nước ngoài có thể dễ dàng khiến hạn mức nợ hằng năm của quốc gia vượt trần. Bằng cách xây dựng thêm các thông số của quy trình phê duyệt, động thái lập pháp này nhằm mục đích giám sát và kiểm soát tốt hơn các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước, qua đó nâng cao chất lượng hồ sơ nợ của Việt Nam. Dự Thảo Thông Tư, theo hình thức hiện hành, sẽ có tác động đáng kể về cơ cấu đến khoản nợ nước ngoài của các bên vay trong nước. Trong nội dung cập nhật pháp luật này, chúng tôi thảo luận về các khía cạnh đáng chú ý của chế độ mới được đề xuất và các kết luận chính của YKVN.

Giới Hạn Trần Đối Với Chi Phí Vay

Mặc dù Thông Tư 12 luôn trao quyền cho Thống đốc NHNN trong việc quyết định mức trần chi phí vay khi cần thiết, nhưng việc quyết định này chưa bao giờ được thực hiện bởi Thống đốc. Do đó, trên thực tế các bên vay có thể vay với chi phí cao trong các giao dịch tái cấu trúc hoặc đầu tư mạo hiểm (Venture Capital, VC) / đầu tư cổ phần tư nhân (Private Equity, PE) khi được NHNN chấp thuận. Dự Thảo Thông Tư tiếp cận chặt chẽ hơn, và lần đầu tiên đưa ra các giới hạn sau về chi phí vay của các khoản vay lãi suất thả nổi:

  • Đối với các khoản vay nước ngoài bằng ngoại tệ: Nếu áp dụng lãi suất tham chiếu (ví dụ: lãi suất LIBOR, EURIBOR, Lãi Suất Có Kỳ Hạn SOFR, v.v.), giới hạn sẽ là tổng của lãi suất tham chiếu đó cộng với 8% mỗi năm;
  • Đối với các khoản vay nước ngoài bằng đồng Việt Nam (thực tế khả dụng trong những trường hợp rất hạn chế): Giới hạn sẽ là tổng lãi suất trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm cộng với 8% mỗi năm.

Dự thảo Thông tư không quy định bất kỳ giới hạn nào đối với các khoản vay nước ngoài lãi suất cố định. Có thể trên thực tế, NHNN sẽ quy định mức trần cho khoản vay lãi suất cố định tương tự như áp dụng cho các khoản vay lãi suất thả nổi.

Theo giải thích của NHNN, việc áp dụng giới hạn chi phí vay sẽ hạn chế các khoản vay nước ngoài đối với các bên vay trong nước có mức tín dụng cao và do đó đủ điều kiện để khai thác các nguồn vốn nước ngoài với chi phí hợp lý. Với nguyên lý này, rất ít khả năng NHNN sẽ đưa ra yêu cầu từ bỏ giới hạn ngay cả trong bối cảnh tái cơ cấu hoặc các giao dịch đầu tư VC/PE.

Về cơ bản, chi phí vay được định nghĩa trong Dự Thảo Thông Tư là tổng chi phí mà bên vay phải trả cho bên cho vay, nhà cung cấp dịch vụ bảo đảm, công ty bảo hiểm, đại lý và các bên liên quan khác và chi phí này bao gồm lãi vay, IRR và các chi phí khác liên quan đến khoản vay, tất cả các chi phí như vậy đều được tính theo tỷ lệ phần trăm hằng năm trên tổng số tiền vay. Dự Thảo Thông Tư đặc biệt loại trừ lãi phạt, phí cam kết đối với các khoản cam kết chưa được giải ngân, chi phí trả trước, chi phí bảo hiểm rủi ro và thuế khấu trừ. Tuy nhiên, danh sách loại trừ không được dự kiến nhằm mục đích đưa ra yêu cầu toàn diện, nói cách khác là bất kỳ nội dung nào không được đề cập cụ thể (bằng cách loại trừ) thì sẽ được bao gồm nhằm mục đích tính toán chi phí vay. Theo cấu trúc này, các nghĩa vụ thanh toán khác như bồi thường có thể phải được đưa vào việc tính toán chi phí vay. Điều này rất phức tạp vì các nghĩa vụ đó không được giới hạn và, quan trọng hơn là, các nghĩa vụ đó không thể xác định trước. Mặc dù chúng ta có thể mong đợi việc tính toán chi phí vay sẽ ngày càng phát triển, nhưng có lý do để loại trừ các nghĩa vụ trên khỏi việc tính toán chi phí vay vì không có cơ sở để tính toán các nghĩa vụ đó trừ khi chúng được giới hạn mức trần.

Yêu Cầu Về Bảo Hiểm Rủi Ro Ngoại Hối

Bảo hiểm rủi ro ngoại hối bắt buộc lần đầu tiên được áp dụng như một biện pháp bảo vệ trước sự biến động tiền tệ. Yêu cầu mới theo Dự Thảo Thông Tư sẽ làm phát sinh chi phí vay bổ sung. Bên vay phải bảo đảm các đơn vị tiền tệ sau được bảo hiểm rủi ro ngoại hối với các ngân hàng trong nước (là các ngân hàng được cấp phép cung cấp các dịch vụ phòng ngừa rủi ro):

  • Đối với các khoản vay nước ngoài ngắn hạn: Các bảo hiểm rủi ro ngoại hối là bắt buộc đối với bất kỳ khoản vay nước ngoài ngắn hạn nào có số tiền nợ gốc trên 500.000 USD (hoặc ngoại tệ khác tương đương). Các bảo hiểm rủi ro ngoại hối như vậy phải được bảo đảm khả dụng vào hoặc trước lúc giải ngân và có giá trị tương đương ít nhất 30% số tiền gốc.
  • Đối với các khoản vay nước ngoài trung và dài hạn: Các bảo hiểm rủi ro ngoại hối là bắt buộc đối với mỗi lần thanh toán số tiền nợ gốc trên 500.000 USD (hoặc ngoại tệ khác tương đương). Các bảo hiểm rủi ro ngoại hối như vậy phải được bảo đảm khả dụng không muộn hơn 3 tháng trước ngày thanh toán số tiền gốc liên quan và và có giá trị tương đương ít nhất 30% số tiền gốc sẽ được hoàn trả liên quan.

Điểm đáng chú ý là các bên vay là (i) tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, và (ii) các tổ chức/cá nhân có “đủ thu nhập ngoại tệ” (ví dụ: các công ty xuất khẩu) được miễn trừ yêu cầu bảo hiểm rủi ro ngoại hối.

Yêu Cầu Chỉ Định Đại Lý Bảo Đảm Trong Nước

Theo Dự Thảo Thông Tư, trường hợp khoản vay nước ngoài được bảo đảm bằng tài sản bảo đảm tọa lạc tại Việt Nam, bên cho vay và trái chủ nước ngoài phải chỉ định tổ chức tín dụng Việt Nam (kể cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài) hoặc pháp nhân khác của Việt Nam làm đại lý bảo đảm, trừ trường hợp việc bên nhận bảo đảm nhận chuyển nhượng (cụ thể là chuyển nhượng quyền sở hữu) tài sản bảo đảm được xem là đáp ứng đầy đủ và giải trừ các nghĩa vụ bảo đảm.

Hiện tại, khái niệm đại lý bảo đảm chưa được NHNN quy định rõ ràng. Khái niệm này chỉ được áp dụng trong bối cảnh cho vay hợp vốn khi mà các quy định của NHNN cho phép cụ thể một thành viên hợp vốn đóng vai trò là đại lý bảo đảm và đại diện cho toàn bộ các bên cho vay hợp vốn. Do đó, trong các khoản tài trợ cho vay (không hợp vốn) khác (ví dụ, các khoản vay song phương), các ngân hàng trong nước thường do dự trong việc chấp nhận các vai trò đại lý bảo đảm khi không có cơ sở pháp lý rõ ràng. Do đó, sự thay đổi này được hoan nghênh vì, ở một mức độ nhất định, nó tạo cơ sở pháp lý cho các ngân hàng trong nước đóng vai trò như các đại lý bảo đảm liên quan đến tất cả các khoản vay nước ngoài có bảo đảm.

Yêu Cầu Bổ Sung Về Mục Đích Của Việc Sử Dụng Tiền Thu Được  

Theo Thông Tư 12, mục đích của việc sử dụng tiền thu được đối với các khoản vay nước ngoài trung và dài hạn được giới hạn ở việc (i) tài trợ cho các dự án sản xuất và đầu tư của bên vay hoặc các công ty do bên vay đầu tư (bao gồm cả tài trợ giao dịch mua lại cho mục đích mua bán và sáp nhập) và (ii) tái tài trợ cho các khoản vay nước ngoài của bên vay với các điều kiện có lợi hơn. Ngoài ra, bên vay không được sử dụng tiền thu được từ các khoản vay ngắn hạn nước ngoài cho mục đích sử dụng trung và dài hạn. Vấn đề này vẫn chưa được quy định cụ thể, liệu các khoản vay ngắn hạn có thể được sử dụng cho các mục đích mua bán và sáp nhập hay không.

Dự Thảo Thông Tư làm rõ mục đích của việc sử dụng tiền thu được đối với cả khoản vay nước ngoài ngắn hạn và khoản vay nước ngoài trung và dài hạn. Thông thường, khoản vay ngắn hạn nước ngoài phải được sử dụng để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn (các khoản nợ đến hạn thanh toán trong vòng 12 tháng kể từ khi ký kết các hợp đồng giao dịch). Tuy nhiên, bên vay không được sử dụng tiền thu được từ các khoản vay nước ngoài ngắn hạn để (i) tái tài trợ cho các khoản nợ trong nước, (ii) tài trợ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán (ví dụ, các khoản vay lãi biên), (iii) tài trợ giao dịch mua lại cổ phần cho mục đích mua bán và sáp nhập và (iv) tài trợ đầu tư vào tài sản và dự án bất động sản.

Bên vay có thể sử dụng tiền thu được từ các khoản vay nước ngoài trung và dài hạn để (i) tài trợ cho các dự án đầu tư của bên vay, (ii) tăng vốn của bên vay cho các mục đích sản xuất kinh doanh hợp pháp, với điều kiện tỷ lệ nợ trung và dài hạn trên vốn chủ sở hữu không vượt quá tỷ lệ 3:1 và (iii) tái tài trợ cho các khoản nợ nước ngoài của bên vay. Chúng tôi mô tả bên dưới 4 vấn đề cần lưu ý cụ thể.

Thứ nhất, Dự Thảo Thông Tư đặc biệt loại bỏ khả năng bên vay sử dụng các khoản vay trung và dài hạn để tài trợ cho các dự án đầu tư hoặc sản xuất tại các công ty con của mình. Điều này có thể thực hiện được theo Thông Tư 12 bằng cách đầu tư vốn chủ sở hữu hoặc vốn vay vào các công ty con. NHNN chưa đưa ra bất kỳ giải thích nào về việc loại bỏ này và ý định của NHNN vẫn chưa rõ ràng. Chúng tôi hy vọng nội dung sẽ được NHNN làm rõ hơn, vì nếu được thông qua, quy định này sẽ đặt ra vấn đề đối với cấu trúc tập đoàn có vốn do công ty mẹ huy động để các công ty con sử dụng (một hình thức phân chia phổ biến).

Thứ hai, đối với mục đích tăng vốn, tỷ lệ nợ 3:1 trên vốn chủ sở hữu là một yêu cầu mới. Vốn chủ sở hữu bao gồm vốn điều lệ và các khoản mục vốn chủ sở hữu khác, trong khi nợ được giới hạn ở nợ tài chính trung và dài hạn và không bao gồm nợ ngắn hạn và nợ thương mại.

Thứ ba, đối với mục đích tái tài trợ, Dự Thảo Thông Tư loại bỏ điều kiện tái tài trợ phải mang tính ưu đãi hơn. Thay vào đó, khoản tiền vay nước ngoài mới không được vượt quá số dư nợ của khoản vay tái tài trợ. Điều này được coi là hợp lý vì thực tế bên vay chỉ nhận tái tài trợ với các điều kiện mang tính ưu đãi hơn so với khoản nợ hiện hữu của bên vay.

Cuối cùng, chúng tôi lưu ý rằng Bộ Tài chính (“BTC”) đang nghiên cứu riêng về dự thảo quy chế quản lý trái phiếu do các doanh nghiệp Việt Nam phát hành tại Việt Nam hoặc trên thị trường quốc tế. Đối với trái phiếu phát hành quốc tế bằng ngoại tệ, dự thảo quy định chỉ yêu cầu mục đích của việc sử dụng tiền thu được đối với trái phiếu đó phải tuân thủ các quy định hiện hành của thị trường nơi trái phiếu được chào bán. Không có hạn chế cụ thể nào áp dụng cho mục đích của việc sử dụng tiền thu được đối với các trái phiếu đó như hiện được quy định theo quy chế dự thảo do BTC đề xuất. NHNN nên xem xét cách tiếp cận được thực hiện theo dự thảo quy chế quản lý này nhằm bảo đảm có sự thống nhất giữa hai văn bản quy phạm pháp luật được đề xuất.

Kết Luận

Dự Thảo Thông Tư thể hiện quyết tâm của NHNN trong việc thắt chặt các tiêu chí áp dụng đối với các khoản vay nước ngoài của các doanh nghiệp trong nước. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, sự gián đoạn chuỗi cung ứng và rủi ro vỡ nợ (được minh họa bằng những thất bại như sự kiện Evergrande của Trung Quốc), nỗ lực này nhằm mục đích bảo vệ hồ sơ nợ nước ngoài của Việt Nam. Mặc dù Dự Thảo Thông Tư (tại thời điểm viết bài) vẫn đang tiếp nhận ý kiến của công chúng (để cân bằng giữa mục tiêu chính sách của NHNN với nhu cầu của các bên liên quan), nhưng rõ ràng NHNN đang chuyển sang một chế độ quản lý khoản vay nước ngoài chặt chẽ hơn. Trong khi giới hạn về các khoản vay nước ngoài, các yêu cầu về bảo hiểm rủi ro ngoại hối, các yêu cầu về chỉ định đại lý bảo đảm địa phương và các yêu cầu bổ sung về mục đích của việc sử dụng tiền thu được tạo ra một hệ thống ổn định hơn, tất cả những điều này đồng thời có thể ngăn chặn nỗ lực gây quỹ quốc tế của các doanh nghiệp địa phương cho các hoạt động thương mại hợp pháp. Chúng tôi hy vọng rằng bất kỳ mối quan tâm nào của các bên liên quan sẽ được NHNN xem xét khi cân đối các mục tiêu pháp lý của chính NHNN.